Con rồng trong ngôn ngữ dân gian

Hoàng Tuấn Công/VOV.VN
Chia sẻ

VOV.VN - Rồng là con vật duy nhất trong 12 con giáp không tồn tại trong thực tế, nhưng nó vẫn mang hình dạng, tập tính của một con vật bằng xương bằng thịt và xuất hiện khá nhiều trong lời ăn tiếng nói dân gian, điển cố, điển tích.

Tương truyền, khi trời sắp mưa, rồng gầm lên thành sấm. Thế nên ví thanh âm gì hùng tráng thì gọi là Long minh sư hống 龍鳴獅吼 (Rồng gầm, sư tử rống). Mây là môi trường sống của rồng. Mây với rồng như nước với cá, nên có thành ngữ Như cá gặp nước như rồng gặp mây; Rồng mây gặp hội; Gặp hội mây rồng; Long vân gặp hội; Long vân khánh hội,... ý chỉ cơ hội may mắn, vua tôi, trai gái gặp nhau, hoặc người đi thi đỗ đạt, vinh hiển.

Rồng có thể hút cạn sông biển, nhả mây phun mưa, làm ra phong ba bão táp. Bởi thế, thành ngữ Việt có câu Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa; Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội ngược.

Trong mây, rồng ẩn hiện, biến hoá khôn lường, nên thành ngữ Thần long kiến thủ bất kiến vĩ 神龍見首不尾 (Rồng thiêng thấy đầu mà không thấy đuôi), ví với người có hành tung bí ẩn.

Rồng và hổ là hai con vật thuộc dòng giống cao quý, sức mạnh phi thường. Bởi thế, theo dân gian, tính di truyền của rồng và hổ rất mạnh. Tục ngữ Việt có câu Trứng rồng lại nở ra rồng, Hổ phụ sinh hổ tử. Trong khi tục ngữ Hán lại cho rằng Long sinh cửu tử, cửu tử bất thành rồng - 龍生有九子,九子不成龍, nghĩa là rồng sinh chín con, không phải cả chín con đều thành rồng; hay Nhất long sinh cửu chủng, chủng chủng các biệt 一龍生九種, 種種各別 - Một rồng sinh chín con, mỗi con mỗi khác (đồng nghĩa Cha mẹ sinh con trời sinh tính). Quan niệm của người Việt và người Trung Hoa khác nhau chăng? Thực ra giống hệt nhau, bởi đây chỉ là thủ pháp của dân gian, ý nói, đến dòng giống như rồng mà sinh con còn không giống nhau, huống chi người!

Rồng là con vật thượng đẳng. Nó ẩn mình dưới vực sâu, vẫy vùng chốn sông dài biển rộng, bay lượn trên mây cao. Bởi thế, thành ngữ Rồng lội ao tù, Rồng vàng tắm nước ao tù,… ví với người anh hùng lúc sa cơ, bị kìm hãm bó buộc, không có điều kiện thi thố tài năng. Long khuất xà thân 龍屈蛇伸 (Rồng co rắn duỗi), hình dung quân tử thất thế, còn tiểu nhân thì thừa dịp đắc chí.

Với con rồng thì phần đầu của nó đồ sộ, nhiều bộ phận và đẹp nhất, trong khi đuôi rắn thì cấu tạo cực kì đơn giản. Bởi vậy, thành ngữ Long đầu xà vĩ 龍頭蛇尾 (Đầu rồng đuôi rắn), ám chỉ việc gì mở đầu thì to lớn, kết thúc không ra gì, tương tự Đầu voi đuôi chuột.

Rồng là con vật thần dị, sức mạnh vô song. Bởi thế, tướng rồng luôn được xem là quý tướng: Long hành hổ bộ (Đi như rồng bước như hổ), Long tương hổ bộ 龍驤虎步 (Rồng lướt hổ đi) chỉ tướng mạo, phong thái của bậc đế vương; Long mi phượng mục 龍眉鳳目 (Mày rồng mắt phượng) hình dung tướng mạo không tầm thường; Long mi báo cảnh 龍眉豹頸 (Mày rồng cổ báo), là tướng mạo của lực sĩ; Long đằng hổ khiếu 龍騰虎嘯 (Rồng bay hổ gầm) ý chỉ thanh thế rất ghê gớm,…

Rồng và hổ đều sở hữu sức mạnh tiềm tàng, dũng mãnh, nên long-hổ thường sánh đôi với nhau, thành một cặp đối nhau. Câu Sinh long hoạt hổ - 生龍活虎, ví sự khoẻ mạnh, tràn đầy sinh lực như rồng như hổ, hoặc nói về văn chương sinh động, có sức mạnh lay động lòng người; Tàng long ngoạ hổ 藏龍臥虎, nói nhân tài đang ẩn náu chờ thời, hoặc chưa được phát hiện; Long tranh hổ đấu  龍爭虎鬥, chỉ hai bên thế lực ngang nhau, tranh đấu quyết liệt.

Dưới cái nhìn của nhà phong thuỷ, Long bàn hổ cứ 龍爭蟠虎踞 (Rồng cuộn hổ ngồi) chỉ sự uy dũng mà không lộ tướng, chính là thế đất quý; hoặc ví với vẻ hiểm yếu, hùng vĩ của cuộc đất đế vương, nơi anh hùng hào kiệt chiếm cứ. Long bàn phượng vũ  龍盤鳳舞 (Rồng cuộn phượng múa), ví hình thế núi sông uốn lượn, có khí tượng của đế vương. Long đàm hổ huyệt 龍潭虎穴 (Vực rồng hang hổ), chỉ vị trí, địa thế cực kì hiểm ác. Tả thanh long hữu bạch hổ (bên Đông là rồng xanh, bên Tây là hổ trắng) là thế đất tối quý với cả dương trạch và âm trạch.

Rồng cũng thường đi với phượng - loài chim thần trong truyền thuyết - để tạo thành một cặp tương xứng. Long phi phương vũ 龍飛鳳舞, hình dung sự phóng khoáng, hoạt bát; nét bút thư pháp hùng kì, sinh động. Long phượng trình tường 龍鳳呈祥, chỉ việc tốt, việc vui mừng. Long can phượng tuỷ  龍肝鳳髓 (Gan rồng tuỷ phượng, đồng nghĩa Long can báo thai 龍肝豹胎 - Gan rồng thai báo), tỉ dụ thực phẩm quý, rất khó kiếm được.

Dù là con vật huyền thoại, nhưng rồng vẫn xung khắc với con chó trong “tứ hành xung”: Thìn-Tuất-Sửu-Mùi. Nguyên nhân, dân gian cho rằng, rồng là con vật cao quý, nên nó xung khắc với con chó bẩn thỉu, hôi hám. Tuy nhiên, chó thường được đặt cạnh hổ để tạo nên sự đối lập giữa oai hùng và hèn kém; trong khi rồng và tôm lại được đem ra so sánh để nói về hai đẳng cấp khác nhau. Điển tích Cá chép hoá rồng, kể rằng cá chép và tôm cùng thi vượt Vũ Môn, nhưng chỉ có con cá chép ngậm viên ngọc là hoá rồng.

Còn tôm tuy có tài búng càng, co mình bật nhảy tanh tách trên mặt nước để vượt thác, nhưng đến tầng thứ ba thì nó bị ngã đau, tới mức ruột gan lộn lên đầu! Thành ngữ Rồng đến nhà tôm, là một cách nói nhún, ví trường hợp người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn; Đầu rồng đuôi tôm, ý chỉ khởi đầu to lớn, kết thúc không ra gì; Rồng lội ao tù tôm cũng giỡn, hàm ý khi bị thất thế thì ai cũng có thể xem thường, kể cả đứa vốn rất hèn mọn, bình thường không thể so sánh với kẻ bị thất thế kia (đồng nghĩa Hổ lạc bình dương bị khuyển khi 虎落平陽被犬欺 - Hổ xuống đồng bằng thì đến con chó cũng coi thường).

Trong hội hoạ, điêu khắc (dân gian cũng như cung đình), có lẽ rồng là con vật xuất hiện sớm và nhiều nhất trong số 12 con giáp. Tuy nhiên, vẽ rồng cho ra rồng không phải chuyện dễ. Thế nên tục ngữ gốc Hán có câu Hoạ long hoạ hổ nan hoạ cốt 畫龍畫虎難畫骨 (dị bản Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt), ý nói vẽ rồng, vẽ hổ thì cái khó nhất là thể hiện được phong cốt rồng hổ. Bởi vậy, thành ngữ Việt có câu Vẽ rồng nên giun, đồng nghĩa với tục ngữ Hán Hoạ long khắc cốc 畫龍刻鵠, Hoạ hổ bất thành phản loại cẩu, ví thử muốn làm điều gì to tát, ghê gớm, nhưng chung quy thất bại, trở thành trò cười cho thiên hạ.

Nói về vẽ rồng, giỏi nhất phải kể đến Trương Tăng Dao thời Nam Bắc triều. Sách Lịch đại danh hoạ kí của Trương Ngạn Viễn chép, khi trang trí chùa An Lạc ở Kim Lăng (Nam Kinh), Tăng Dao vẽ bốn con rồng trắng lên tường, trông giống như thật. Nhưng khi vẽ mắt rồng, ông không điểm con ngươi. Nhiều người hỏi tại sao không vẽ cho hoàn chỉnh, ông trả lời: “Nếu điểm thêm con ngươi, e rằng rồng sẽ bay mất”. Mọi người cho đó là lời nói xằng, nên cố nài ông vẽ nốt.

Chẳng ngờ, khi Trương Tăng Giao vừa lấy bút “điểm nhãn” thì lập tức sấm sét nổi lên, bức tường nứt ra, hai con rồng trắng tức thời cuộn vào mây bay lên trời; hai con không được điểm nhãn thì nằm lại. Dĩ nhiên, câu chuyện chỉ là một cách ca ngợi tài năng hội hoạ của Trương Tăng Dao, chứ không có thật. Về sau, Hoạ long điểm tình 畫龍點睛, hay Hoạ long điểm nhãn, ý chỉ biết khai mở nội dung chính yếu, then chốt, làm cho văn chương, hội hoạ, lời nói trở nên sống động, thuyết phục.

Có thể nói, trong số 12 con giáp, thì Tí, Sửu, Dần, Mão […], Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, đều xuất hiện trong lời ăn tiếng nói dân gian theo kiểu “đa nhân cách”, có cả hai mặt tốt và xấu. Duy chỉ có Thìn - Rồng trong ngôn ngữ dân gian là luôn hiện lên với vẻ đẹp hoàn mĩ, tích cực. Điều này cũng dễ hiểu, bởi rồng là con vật huyền thoại, tồn tại trong hư vô, tự ngàn xưa đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, vương quyền, sự linh thiêng, cao quý.

Tin cùng chuyên mục